ĐỀ CƯƠNG TRUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 47 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2022)
-----
I. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến với mưu đồ bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
2.1. Từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ
Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ cách mạng vững mạnh của cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958 - 1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản xóa bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của Ngụy quyền ở các thôn, xã.
2.2. Từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, áp dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Ở miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
2.3. Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc
Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967), kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plây-me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
2.4. Từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng lợi cuối cùng.
2.5. Từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
Sau khi ký Hiệp định Pa-ri, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pa-ri của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 04/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các nước đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
4. Nguyên nhân thắng lợi
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền con người.
Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
5. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH TRONG QUÝ I/2022
KỶ NIỆM 47 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (30/4/1975 - 30/4/2022)
-----
I. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ có tiềm lực rất mạnh, nổi lên cầm đầu phe đế quốc, hiếu chiến với mưu đồ bá chủ thế giới, từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông Dương. Sau thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống đối đầu gay gắt bằng cuộc “chiến tranh lạnh” và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ thống chủ nghĩa xã hội, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc ta.
2. Những bước phát triển của cuộc kháng chiến
2.1. Từ tháng 7/1954 đến hết năm 1960: Đấu tranh giữ gìn lực lượng, chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ
Những chiến thắng oanh liệt trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào. Nhưng với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, gạt bỏ những thế lực tay sai của Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Chính quyền Mỹ - Diệm tập trung thực hiện biện pháp “tố cộng”, “diệt cộng”, đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước, trả thù những người kháng chiến cũ, tiêu diệt cơ sở cách mạng ở miền Nam, ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung. Cách mạng miền Nam bị dìm trong biển máu.
Đứng trước tình thế mới, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và nhân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ cách mạng vững mạnh của cả nước. Hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ trên, miền Bắc tích cực triển khai những công việc bộn bề sau chiến tranh, nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới. Trong ba năm (1958 - 1960), chúng ta đã hoàn thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản xóa bỏ chế độ bóc lột, bước đầu xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị một số nội dung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng. Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II ra đời, xác định rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam; định hướng và động viên nhân dân miền Nam vùng lên đấu tranh, tạo ra phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, làm tan rã hàng loạt bộ máy của Ngụy quyền ở các thôn, xã.
2.2. Từ đầu năm 1961 đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
Từ cuối năm 1960, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược, áp dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” để đối phó với cách mạng miền Nam. Đó là chiến lược dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược, đưa 10 triệu nông dân miền Nam vào các trại tập trung, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chuyển sang giai đoạn mới, từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng, kết hợp song song cả đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng cả ba mũi giáp công, trên cả ba vùng chiến lược, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ và tay sai. Ở miền Bắc, các mặt trận kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới. Quân và dân miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
2.3. Từ giữa năm 1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ cứu nước, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc
Trước nguy cơ phá sản của “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân đội Mỹ là lực lượng cơ động chủ yếu tiêu diệt bộ đội chủ lực ta; dùng ngụy quân, ngụy quyền để bình định, kìm kẹp nhân dân, âm mưu đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 đến 30 tháng (từ giữa năm 1965 đến hết năm 1967), kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Mỹ ngay từ những trận đầu khi chúng vừa đổ bộ vào. Tiếp theo những trận thắng oanh liệt ở Núi Thành, Vạn Tường, Plây-me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, ta lại đánh bại ba cuộc hành quân lớn của Mỹ vào miền Đông Nam bộ, đánh thắng lớn ở các chiến trường Tây Nguyên, miền Tây khu V, Đường 9, đồng bằng Nam bộ và các mục tiêu chủ yếu của địch ở các thành phố lớn. Quân dân miền Bắc tiếp tục đánh trả cuộc tiến công của Mỹ bằng không quân và hải quân, giành những thắng lợi lớn trên nhiều mặt, bảo đảm giao thông thông suốt, chi viện sức người, sức của ngày càng lớn cho miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn mới.
2.4. Từ năm 1969 đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán
Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, từng bước mở rộng chiến tranh sang Campuchia, Lào. Thủ đoạn xảo quyệt của Mỹ là thực hiện chiến tranh hủy diệt và chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta trên cả hai miền Nam - Bắc. Quân và dân ta phối hợp với quân, dân hai nước Lào, Campuchia đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Những thắng lợi của chiến tranh cách mạng ba nước Đông Dương trong hai năm 1970 - 1971 đã tạo thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Nhờ chuẩn bị tốt lực lượng, nắm đúng thời cơ, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi lớn trên chiến trường, nhất là cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B52 của Mỹ, làm thay đổi cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Trong đàm phán, chúng ta cũng khôn khéo tiến công địch, phối hợp chặt chẽ giữa “đánh và đàm”, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam. So sánh lực lượng thay đổi hẳn, có lợi cho ta, tạo điều kiện cơ bản nhất để ta giành thắng lợi cuối cùng.
2.5. Từ cuối năm 1973 đến ngày 30/4/1975: Tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
Sau khi ký Hiệp định Pa-ri, mặc dù buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện chiến tranh cho ngụy lấn đất, giành dân, khống chế nhân dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5/1973, xu thế chống phá Hiệp định Pa-ri của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7/1973, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 21 đã khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974, cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống lại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” đã giành được thắng lợi. Ta ngày càng mạnh lên, ngụy ngày càng suy yếu rõ rệt. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội bộ. Tháng 7/1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thắng lợi toàn miền, nhất là của miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là chiến thắng Phước Long cuối năm 1974 - đầu năm 1975 càng cho thấy thực tế suy yếu của quân ngụy Sài Gòn và khả năng Mỹ khó quay lại Việt Nam. Đảng ta nhận định thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu từ ngày 04/3 bằng ba đòn chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng trận đột phá đánh chiếm Buôn Ma Thuột, giải phóng Tây Nguyên; Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định kết thúc vào ngày 30/4. Qua gần 2 tháng chiến đấu với sức mạnh áp đảo về chính trị và quân sự, quân và dân ta đã giành được toàn thắng, kết thúc 21 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Đối với Việt Nam: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng và chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước mấy ngàn năm của dân tộc. Nhân dân ta đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho đất nước; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; đánh dấu bước ngoặt quyết định trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự do, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đối với thế giới: Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới; góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ, động viên các nước đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc; mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân mới trên toàn thế giới.
4. Nguyên nhân thắng lợi
Một là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hai là, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền con người.
Ba là, cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Năm là, đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia; đoàn kết quốc tế.
5. Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất: Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thứ ba: Vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh toàn dân và nghệ thuật quân sự chiến tranh toàn dân, xây dựng và phát triển lý luận chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Thứ tư: Chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo và nắm thời cơ giành những thắng lợi quyết định.
Thứ năm: Phải luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng trong mọi hoàn cảnh, nâng cao sức chiến đấu và phát huy hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH TRONG QUÝ I/2022
Năm 2022 - năm thứ hai triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh và Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở kế thừa kết quả tích cực đạt được và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý điều hành trong năm 2021; nhận định các thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức; phát huy sự đoàn kết, đồng thuận và nỗ lực, phấn đấu với quyết tâm cao nhất để đạt nhiều kết quả hơn nữa trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh; cùng với tinh thần nâng cao trách nhiệm, đổi mới tư duy, thay đổi tác phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, xem người dân là đối tượng phải phục vụ, xem doanh nghiệp là động lực, nguồn lực cho quá trình phát triển, Tỉnh ủy xác định nhiệm vụ trọng tâm năm 2022 là: “Tiếp tục lãnh đạo chặt chẽ linh hoạt phát triển kinh tế - xã hội thích ứng trong điều kiện bình thường mới, gắn với kiểm soát tốt dịch bệnh; tăng tốc triển khai các chương trình đột phá, công trình trọng điểm. Đẩy mạnh cải cách hành chính; tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; tăng cường xã hội hóa trên các lĩnh vực; thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững quốc phòng, an ninh, đảm bảo các hoạt động đối ngoại. Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát huy dân chủ và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Trong 3 tháng đầu năm 2022 trong điều kiện còn nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 và tình hình an ninh chính trị, kinh tế thế giới có nhiều biến động, đã tác động đến hầu hết các lĩnh vực, đời sống xã hội của tỉnh. Trước tình hình đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh đã tập trung nỗ lực phấn đấu lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Tỉnh ủy trong quý I/2022 đạt được một số kết quả tích cực trên các lĩnh vực.
Về công tác phòng, chống dịch Covid-19
Hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp đã tập trung lãnh đạo, thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19, nên tình hình dịch bệnh được kiểm soát hiệu quả, đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt theo tinh thần Nghị quyết số 128/NQ-CP, ngày 11/10/2021 của Chính phủ.
Về phát triển kinh tế
Tình hình kinh tế có nhiều khởi sắc; tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 2,83%; trong đó, khu vực I (nông, lâm, thủy sản) ước tăng 1,59%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) ước tăng 3,4%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) ước tăng 3,28%.
- Sản xuất nông nghiệp, được tập trung chỉ đạo chặt chẽ; chủ động thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn, thiếu nước, xâm nhập mặn phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh trong mùa khô; các cây trồng chủ lực của tỉnh phát triển ổn định, tiêu thụ nông sản có dấu hiệu phục hồi. Nuôi trồng, khai thác thủy sản được tập trung chỉ đạo theo khung thời vụ, người dân thu hoạch có lãi. Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 được tích cực triển khai. Chương trình đầu tư xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm thực hiện (Đến nay, toàn tỉnh có 108/161 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 67,08% tổng số xã toàn tỉnh, trong đó có 19 xã đạt chuẩn NTM nâng cao).
- Công nghiệp - xây dựng, có nhiều chuyển biến tích cực. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý I tăng 1,69% so với cùng kỳ. Công tác xúc tiến, thu hút, hỗ trợ đầu tư được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, khởi nghiệp, tái sản xuất (Trong quý, về đầu tư trong nước thành lập mới 435 doanh nghiệp với số vốn 6.663 tỷ đồng, có 38 dự án trong nước được cấp giấy chứng nhận đầu tư với vốn đầu tư 8.906,8 tỷ đồng; về đầu tư nước ngoài: cấp mới 19 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 216,9 triệu USD). Tập trung thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng kỹ thuật tại các khu, cụm công nghiệp; đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Chương trình huy động mọi nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị vùng kinh tế trọng điểm và Kế hoạch thực hiện 03 Công trình trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh được tập trung triển khai thực hiện.
- Thương mại - dịch vụ, phục hồi mạnh; ước tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng xã hội quý I đạt 30.919,1 tỷ đồng, tăng 2,49% so với cùng kỳ, đạt 28,9% so với kế hoạch. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý I tăng 3,02% so cùng kỳ và cao hơn bình quân cả nước. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối giao thương trực tuyến nhằm giải quyết tiêu thụ cho các sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại trên tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm trong dịp Tết.
- Tài chính - tín dụng, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước tiếp tục được tập trung chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu năm; tổng thu ngân sách nhà nước đến ngày 31/3/2022 là 6.785 tỷ đồng, đạt 39,1% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bằng 112,4% so với cùng kỳ. Chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, thực hiện hiệu quả. Hoạt động của các tổ chức tín dụng ổn định, số dư huy động vốn và cho vay đều tăng trưởng; tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát.
Về văn hóa - xã hội
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Công tác phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm trên người được tập trung, các loại bệnh giảm so cùng kỳ. Ngành giáo dục thực hiện thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; điều chỉnh phương án dạy và học phù hợp, đúng quy định; triển khai Đề án “Xây dựng nhà ở công vụ giáo viên giai đoạn 2021 - 2025” năm 2022. Hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch được tổ chức phù hợp, an toàn, đảm bảo quy định phòng, chống dịch Covid-19. Công tác thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; tập trung tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch Covid-19, các ngày lễ, kỷ niệm quan trọng của đất nước, của tỉnh. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và người có công. Công tác lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp được triển khai thực hiện tốt.
Về quốc phòng, an ninh, nội chính
Công tác quốc phòng, an ninh, nội chính được các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ.
Nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được thực hiện thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm; hoàn thành công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ năm 2022, đạt 100% chỉ tiêu ở 3 cấp. Công tác huấn luyện, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng được tập trung thực hiện. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội được quan tâm. Công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường. Duy trì công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân, hòa giải cơ sở; đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm giải quyết. Hoạt động đối ngoại được duy trì; chủ quyền, an ninh biên giới được giữ vững.
Hoạt động của hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh tập trung quán triệt, cụ thể hóa, thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy năm 2022 phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tế của địa phương; tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực phối hợp vận động, xã hội hóa các nguồn lực chăm lo, hỗ trợ gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19 và dịp tết Nguyên đán; quan tâm củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường hướng dẫn cơ sở. Hội Cựu Chiến binh, Đoàn Thanh niên tập trung tổ chức đại hội cấp cơ sở, cấp huyện theo đúng tiến độ đề ra. Tình hình dân tộc, tôn giáo trên địa bàn tỉnh ổn định; các tôn giáo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh triển khai thực hiện chương trình công tác năm 2022; tập trung công tác giám sát, tham gia các kỳ họp và phiên chất vấn theo quy định. Hội đồng nhân dân các cấp chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân triển khai thực hiện các nghị quyết của cấp ủy, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, tăng cường các hoạt động tiếp xúc cử tri và tiếp công dân theo luật định; cho ý kiến các vấn đề phát sinh theo đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh và tổ chức giám sát việc giải quyết khiếu nại, phản ánh của người dân tại các địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục theo dõi, chỉ đạo thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19; tập trung triển khai, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu chi ngân sách nhà nước năm 2022.
Các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo triển khai, thực hiện nghị quyết cấp ủy năm 2022 gắn với đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các chương trình đột phá, công trình trọng điểm của nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025. Lãnh đạo, tổ chức các hoạt động thiết thực mừng Đảng - mừng Xuân trên tinh thần vui tươi, lành mạnh, an toàn và tiết kiệm. Lãnh đạo thực hiện nghiêm túc việc xây dựng kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu năm 2022; tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận, Quy định của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) và quán triệt các phẩm chất, giá trị cốt lõi của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, bố trí cán bộ tiếp tục được quan tâm lãnh đạo, thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình. Hoạt động kiểm tra, giám sát của các cấp ủy được tăng cường, kịp thời phát hiện, chỉ đạo, xử lý một số vấn đề khó khăn, vướng mắc, bức xúc, phát sinh. Công tác tạo nguồn, kết nạp đảng viên được quan tâm; đến ngày 25/3/2022 toàn Đảng bộ đã kết nạp được 207 đảng viên, đạt 15,33% kế hoạch năm.
IV. KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1. Nhiệt liệt chào mừng 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2022)!
2. Tinh thần Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) và Ngày Quốc tế Lao động (1/5) bất diệt!
3. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Sức mạnh của ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình!
4. Đảng vững mạnh, Đất nước phát triển, Dân tộc trường tồn!
5. Dân tộc cường thịnh, trường tồn - Đất nước phồn vinh, hạnh phúc!
6. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội!
7. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
8. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
9. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
NGUỒN BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
Về công tác phòng, chống dịch Covid-19
Hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp đã tập trung lãnh đạo, thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19, nên tình hình dịch bệnh được kiểm soát hiệu quả, đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt theo tinh thần Nghị quyết số 128/NQ-CP, ngày 11/10/2021 của Chính phủ.
Về phát triển kinh tế
Tình hình kinh tế có nhiều khởi sắc; tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 2,83%; trong đó, khu vực I (nông, lâm, thủy sản) ước tăng 1,59%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) ước tăng 3,4%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) ước tăng 3,28%.
- Sản xuất nông nghiệp, được tập trung chỉ đạo chặt chẽ; chủ động thực hiện các giải pháp phòng, chống hạn, thiếu nước, xâm nhập mặn phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh trong mùa khô; các cây trồng chủ lực của tỉnh phát triển ổn định, tiêu thụ nông sản có dấu hiệu phục hồi. Nuôi trồng, khai thác thủy sản được tập trung chỉ đạo theo khung thời vụ, người dân thu hoạch có lãi. Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 được tích cực triển khai. Chương trình đầu tư xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm thực hiện (Đến nay, toàn tỉnh có 108/161 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 67,08% tổng số xã toàn tỉnh, trong đó có 19 xã đạt chuẩn NTM nâng cao).
- Công nghiệp - xây dựng, có nhiều chuyển biến tích cực. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý I tăng 1,69% so với cùng kỳ. Công tác xúc tiến, thu hút, hỗ trợ đầu tư được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, khởi nghiệp, tái sản xuất (Trong quý, về đầu tư trong nước thành lập mới 435 doanh nghiệp với số vốn 6.663 tỷ đồng, có 38 dự án trong nước được cấp giấy chứng nhận đầu tư với vốn đầu tư 8.906,8 tỷ đồng; về đầu tư nước ngoài: cấp mới 19 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 216,9 triệu USD). Tập trung thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng kỹ thuật tại các khu, cụm công nghiệp; đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Chương trình huy động mọi nguồn lực xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị vùng kinh tế trọng điểm và Kế hoạch thực hiện 03 Công trình trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh được tập trung triển khai thực hiện.
- Thương mại - dịch vụ, phục hồi mạnh; ước tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ tiêu dùng xã hội quý I đạt 30.919,1 tỷ đồng, tăng 2,49% so với cùng kỳ, đạt 28,9% so với kế hoạch. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quý I tăng 3,02% so cùng kỳ và cao hơn bình quân cả nước. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, kết nối giao thương trực tuyến nhằm giải quyết tiêu thụ cho các sản phẩm nông sản chủ lực của tỉnh. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại trên tuyến biên giới và các địa bàn trọng điểm trong dịp Tết.
- Tài chính - tín dụng, quản lý, điều hành ngân sách nhà nước tiếp tục được tập trung chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu năm; tổng thu ngân sách nhà nước đến ngày 31/3/2022 là 6.785 tỷ đồng, đạt 39,1% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bằng 112,4% so với cùng kỳ. Chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, thực hiện hiệu quả. Hoạt động của các tổ chức tín dụng ổn định, số dư huy động vốn và cho vay đều tăng trưởng; tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát.
Về văn hóa - xã hội
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Công tác phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm trên người được tập trung, các loại bệnh giảm so cùng kỳ. Ngành giáo dục thực hiện thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; điều chỉnh phương án dạy và học phù hợp, đúng quy định; triển khai Đề án “Xây dựng nhà ở công vụ giáo viên giai đoạn 2021 - 2025” năm 2022. Hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch được tổ chức phù hợp, an toàn, đảm bảo quy định phòng, chống dịch Covid-19. Công tác thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; tập trung tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch Covid-19, các ngày lễ, kỷ niệm quan trọng của đất nước, của tỉnh. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội và người có công. Công tác lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp được triển khai thực hiện tốt.
Về quốc phòng, an ninh, nội chính
Công tác quốc phòng, an ninh, nội chính được các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ.
Nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được thực hiện thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm; hoàn thành công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ năm 2022, đạt 100% chỉ tiêu ở 3 cấp. Công tác huấn luyện, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng được tập trung thực hiện. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội được quan tâm. Công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tăng cường. Duy trì công tác tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân, hòa giải cơ sở; đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm giải quyết. Hoạt động đối ngoại được duy trì; chủ quyền, an ninh biên giới được giữ vững.
Hoạt động của hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tỉnh tập trung quán triệt, cụ thể hóa, thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy năm 2022 phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực tế của địa phương; tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực phối hợp vận động, xã hội hóa các nguồn lực chăm lo, hỗ trợ gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19 và dịp tết Nguyên đán; quan tâm củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường hướng dẫn cơ sở. Hội Cựu Chiến binh, Đoàn Thanh niên tập trung tổ chức đại hội cấp cơ sở, cấp huyện theo đúng tiến độ đề ra. Tình hình dân tộc, tôn giáo trên địa bàn tỉnh ổn định; các tôn giáo chấp hành tốt chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh triển khai thực hiện chương trình công tác năm 2022; tập trung công tác giám sát, tham gia các kỳ họp và phiên chất vấn theo quy định. Hội đồng nhân dân các cấp chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân triển khai thực hiện các nghị quyết của cấp ủy, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, tăng cường các hoạt động tiếp xúc cử tri và tiếp công dân theo luật định; cho ý kiến các vấn đề phát sinh theo đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh và tổ chức giám sát việc giải quyết khiếu nại, phản ánh của người dân tại các địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục theo dõi, chỉ đạo thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19; tập trung triển khai, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán thu chi ngân sách nhà nước năm 2022.
Các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo triển khai, thực hiện nghị quyết cấp ủy năm 2022 gắn với đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các chương trình đột phá, công trình trọng điểm của nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025. Lãnh đạo, tổ chức các hoạt động thiết thực mừng Đảng - mừng Xuân trên tinh thần vui tươi, lành mạnh, an toàn và tiết kiệm. Lãnh đạo thực hiện nghiêm túc việc xây dựng kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu năm 2022; tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận, Quy định của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) và quán triệt các phẩm chất, giá trị cốt lõi của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, góp phần thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, bố trí cán bộ tiếp tục được quan tâm lãnh đạo, thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình. Hoạt động kiểm tra, giám sát của các cấp ủy được tăng cường, kịp thời phát hiện, chỉ đạo, xử lý một số vấn đề khó khăn, vướng mắc, bức xúc, phát sinh. Công tác tạo nguồn, kết nạp đảng viên được quan tâm; đến ngày 25/3/2022 toàn Đảng bộ đã kết nạp được 207 đảng viên, đạt 15,33% kế hoạch năm.
IV. KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1. Nhiệt liệt chào mừng 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2022)!
2. Tinh thần Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4) và Ngày Quốc tế Lao động (1/5) bất diệt!
3. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Sức mạnh của ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa bình!
4. Đảng vững mạnh, Đất nước phát triển, Dân tộc trường tồn!
5. Dân tộc cường thịnh, trường tồn - Đất nước phồn vinh, hạnh phúc!
6. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội!
7. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
8. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
9. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
NGUỒN BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY